Nguyên tắc đóng góp bồi thường: Bảo hiểm trùng và bất cập trong pháp luật Việt Nam
Nguyên tắc Đóng Góp Bồi thường (Contribution) giữ vai trò là một trong những nguyên lý bảo hiểm quan trọng và cơ bản nhất, bên cạnh Trung thực tuyệt đối (utmost good faith), Quyền lợi có thể được bảo hiểm (insurable interest), Nguyên nhân gần (proximate cause), Bồi thường và Thế quyền (indemnity & subrogation), nhưng không hẳn ai cũng đã nắm rõ bản chất về nguyên tắc này.
Còn được gọi dưới tên “bảo
hiểm trùng” (double/dual insurance hoặc other insurance), nguyên
tắc này nhấn mạnh quyền của một công ty bảo hiểm (CTBH) có thể thu hồi theo tỉ
lệ đối với cơ sở số tiền bồi thường bảo hiểm đã trả hoặc phải trả cho Người được
bảo hiểm (NĐBH) từ các công ty bảo hiểm khác mà cũng chịu trách nhiệm cho cùng
một yêu cầu bồi thường cho tổn thất/trách nhiệm đó.
Nguyên tắc Đóng góp bồi thường
(ĐGBT) chỉ áp dụng với Hợp đồng bảo hiểm (HĐBH) có tính bồi thường (contract
of indemnity) nhằm ngăn NĐBH “trục lợi” từ tổn thất (unjust enrichment).
Mặt khác, nó đảm bảo công bằng về phía CTBH, vì nếu NĐBH chỉ khiếu nại một CTBH
thì sẽ bất công với CTBH đó khi mà các CTBH đã nhận được phí bảo hiểm cho rủi
ro đó.
Để xác định việc áp dụng
ĐGBT, pháp luật các nước nói chung yêu cầu các điều kiện sau:
1. Có từ 2 HĐBH có tính bồi thường
Đi
từ ví dụ: Alà chủ quán café CFH. Tháng 5/2019 này, A đã liên hệ mua
bảo hiểm cháy nổ cho quán cafe của mình với CTBH X(hiệu lực từ tháng 1/6/2019),
mà quên mất một điều: năm 2018, A cũng đã mua một HĐBH cháy nổ vẫn còn hiệu lực
đến 10/7/2019 với CTBH Y. Như
vậy, tồn tại 2 HĐBH cháy nổ cho cùng cửa hàng trong khoảng thời gian từ tháng 6
đến giữ tháng 7. Giả sử ngày 15/6/2019, cửa hàng CFH bị cháy, thì lúc đó nguyên
tắc ĐGBT sẽ phát sinh giữa 2 CTBH X và Y.
A sẽ chỉ được yêu cầu bồi
thường từ một trong hai HĐBH và phải báo cho CTBH còn lại về sự tồn tại của
HĐBH còn lại. Lúc đó sẽ là trách nhiệm của CTBH trong việc xem xét thỏa thuận về
đóng góp; còn NĐBH không được khiếu nại cùng lúc. Mọi người sẽ thường thấy trên
Giấy Yêu cầu bồi thường (GYCBT) có câu hỏi: “Anh/chị có mua bảo hiểm nào khác cho cùng sự cố này không? Nếu có, vui
lòng cung cấp số HĐBH và tên CTBH”!
Nguyên tắc này không áp dụng
cho bảo hiểm nhân thọ hoặc các HĐBH không mang tính bồi thường như Bảo hiểm tai
nạn cho rủi ro chết và thương tật toàn bộ vĩnh viễn.
2. Cùng Người được bảo hiểm
Đây là một điều kiện thường
bị bỏ qua khi xem xét việc có áp dụng nguyên lý ĐGBT hay không. Đối với cùng một
tài sản, thì quyền lợi sẽ khác nhau giữa bên mua và bên bán, bên cho thuê và
bên thuê, hay bên thế chấp và bên nhận thế chấp. Mỗi bên sẽ mua bảo hiểm lợi ích của riêng
mình, nên sẽ không coi là bảo hiểm trùng. Tuy nhiên, nếu HĐBH đề cập đến việc bảo
hiểm cho quyền lợi của cả bên kia, hoặc cả hai bên, thì sẽ kích hoạt ĐGBT. Trở
lại ví dụ ở trên, giả sử A có một người anh trai B cùng góp vốn vào quán café
(đồng sở hữu); B vốn dĩ là người lo xa nên tự mình mua thêm một HĐBH mọi rủi ro
tài sản cho quán café và cũng đưa A vào làm NĐBH, thì khi phát sinh một sự kiện
cháy, đối với A sẽ phát sinh bảo hiểm trùng.
3. Cùng rủi ro
Việc đóng góp phải đảm bảo rằng
có cùng một rủi ro bảo hiểm dẫn đến Sự kiện bảo hiểm, nhưng không buộc phải
trùng tất cả rủi ro. Một HĐBH “Mọi rủi ro” sẽ tham gia đóng góp với HĐBH cháy nổ,
do cùng bảo hiểm cho rủi ro do cháy, dù phạm vi bảo hiểm của cái trước rộng
hơn.
Trường hợp này thường xuyên
xảy ra. Ví dụ: A bị mất chiếc điện
thoại Iphone XX khi để trên xe ô tô của mình. Tổn thất này có thể được bảo hiểm
dưới đơn bảo hiểm xe có mở rộng rủi ro trộm cắp tài sản của chủ xe, nhưng cũng
được cùng bảo hiểm dưới HĐBH Tư gia hoặc HĐBH Mọi rủi ro cá nhân. Và nếu A đang
lái xe trong kỳ nghỉ của mình, thì có thể việc mất cắp này còn được bảo hiểm dưới
HĐBH Du lịch mà A có thể đã mua.
4. Cùng đối tượng bảo hiểm
Đây là một điểm mấu chốt xác
định ĐGBT. Đối tượng bảo hiểm bị tổn thất phải giống nhau giữa các HĐBH sẽ tham
gia đóng góp. Tuy nhiên, cũng giống như nguyên tắc số 3 ở trên, các HĐBH không
nhất thiết phải giống nhau hoàn toàn về tất cả đối tượng bảo hiểm, mà miễn là đối
tượng bị thiệt hại là giống nhau. VD: A có thể mua một HĐBH Tư gia để bảo vệ
cho tất cả tài sản cá nhân của anh tại một căn biệt thự Vinhomes SkyGarden,
nhưng có thể đồng thời mua bảo hiểm Mọi rủi ro cho riêng một số tài sản cụ thể
trong đó như đồ trang sức, tác phẩm nghệ thuật, đồ cổ...
Cần lưu ý, đối tượng bảo hiểm
sẽ tùy thuộc vào loại hình bảo hiểm, không chỉ có tài sản mà còn có thể là
trách nhiệm pháp lý (legal liability) hoặc thiệt hại tài chính (financial
loss).
5. Phát sinh trách nhiệm bảo hiểm với tất cả
HĐBH
Nguyên tắc ĐGBT chỉ không thể
kích hoạt nếu có một CBTH từ chối yêu cầu bồi thường, ví dụ do NĐBH vi phạm điều
khoản hợp đồng.
Ví dụ như: A mua HĐBH Tư gia
với hai CTBH cùng lúc. Bỗng một ngày, hàng rào gỗ nhà của A bốc hỏa và thiêu rụi
½ mảnh vườn nhà hàng xóm. Sau vụ tổn thất, CTBH X đã thương lượng giải quyết đền
50 triệu cho hàng xóm; và sau đó quay ra đòi lại 50% đóng góp từ CTBH Y. Tuy
nhiên, Y đã từ chối đóng góp với lý do A vi phạm quy định về thông báo tổn thất
(thông báo trễ quá 60 ngày), nên theo quy định của HĐBH thì Y có quyền từ
chối trách nhiệm.
Việc hiểu đúng cũng như giải
thích cho NĐBH về nguyên tắc ĐGBT sẽ giúp NĐBH tuân thủ trách nhiệm về khai báo
trung thực, kịp thời về tổn thất xảy ra và đảm bảo sự công bằng về trách nhiệm
bồi thường giữa các CTBH.
Bên cạnh đó, hiểu đúng về
ĐGBT/Bảo hiểm trùng cũng không dẫn đến câu chuyện “dở khóc dở cười” trên thị
trường bảo hiểm trong quá trình giải quyết bồi thường, ví dụ: CTBH cấp HĐBH
Hàng hóa (do Nhà vận chuyển D mua thay cho chủ hàng) sau khi thanh toán
tiền bồi thường cho Chủ hàng, đã quay ra CTBH cấp HĐBH Trách nhiệm Nhà vận chuyện cho cùng Nhà vận chuyển D để yêu cầu
“đóng góp” cho khoản bồi thường đã trả, vì nhận định đằng đã phát sinh bảo hiểm
trùng nên các CTBH cùng đóng góp theo tỉ lệ với tổn thất xảy ra. Nhưng rõ ràng,
hai HĐBH có đối tượng bảo hiểm hoàn toàn khác nhau, một đối tượng là “tài sản”
trong khi HĐBH kia có đối tượng là “trách nhiệm dân sự”.
Đối chiếu với pháp luật Việt
Nam
Như đã đề cập ở trên, nguyên
lý ĐGBT/ Bảo hiểm trùng có ý nghĩa vô cùng quan trọng, đặc biệt là về phía CTBH
để đảm bảo quyền lợi cho mình. Luật Kinh doanh bảo hiểm hiện hành chỉ có một
quy định duy nhất tại Điều 44 về Hợp đồng bảo hiểm trùng như sau:
1. Hợp đồng bảo hiểm trùng
là trường hợp bên mua bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm với hai doanh nghiệp
bảo hiểm trở lên để bảo hiểm cho cùng một đối tượng, với cùng điều kiện và sự
kiện bảo hiểm.
2. Trong trường hợp các bên
giao kết hợp đồng bảo hiểm trùng, khi xảy ra sự kiện bảo hiểm, mỗi doanh nghiệp
bảo hiểm chỉ chịu trách nhiệm bồi thường theo tỷ lệ giữa số tiền bảo hiểm đã thỏa
thuận xét trên tổng số tiền bảo hiểm của tất cả các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm
đã giao kết. Tổng số tiền bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm không vượt
quá giá trị thiệt hại thực tế của tài sản.
Như vậy, điều kiện để “kích
hoạt” bảo hiểm trùng theo quy định sẽ gồm tồn tại 2 HĐBH trở lên để bảo hiểm
cho cùng (i) một đối tượng (ii) cùng điều kiện và (iii) cùng sự kiện bảo hiểm. Tuy nhiên, các văn bản dưới luật hiện nay
không đưa ra giải thích thêm về việc áp dụng quy định này như thế nào, dẫn đến
những khó khăn và khúc mắc sau:
Thứ nhất: liệu
các HĐBH này có phải giống nhau hoàn toàn về cả 3 tiêu chí nói trên mới áp dụng
Bảo hiểm trùng, do đó, bảo hiểm trùng sẽ gần như không được áp dụng hoặc chỉ hạn
chế với các sản phẩm bảo hiểm bắt buộc mà cùng điều kiện bảo hiểm, sự kiện bảo
hiểm cố định do Bộ Tài chính ban hành. Theo ý kiến của tác giả, quy định không hướng
tới sự “giống nhau” mà là “sự trùng lặp” với 3 tiêu chí luật định giữa các
HĐBH.
Thứ hai:
cách hiểu thế nào là cùng điều kiện bảo hiểm, vì mỗi Quy tắc bảo hiểm của
các CTBH sẽ xây dựng hoàn toàn khác nhau, từ câu chữ cho đến nội dung quy định,
chưa kể đến việc áp dụng thêm các điều khoản sửa đổi, bổ sung theo từng HĐBH
phù hợp với từng khách hàng.
Thứ ba:
quy định này không chỉ ra rõ ràng, Bên mua bảo hiểm/Người được bảo hiểm có quyền
yêu cầu bất kỳ một CTBH nào phải thanh toán trước số tiền thiệt hại chứ không
phải đợi các CTBH phải thỏa thuận xong việc chia sẻ số tiền bồi thường rồi mới
thanh toán cho BMBH/NĐBH. Việc này dẫn đến ảnh hưởng quyền lợi của BMBH/NĐBH vì
quá trình này có thể kéo dài hàng tháng hoặc hàng năm trời mà BMBH/NĐBH vẫn
chưa thể nhận được tiền bồi thường để khắc phục hậu quả từ tổn thất.
Thứ tư: quy
định về Bảo hiểm trùng chỉ đang nằm trong phần quy định chi tiết của nhóm Bảo
hiểm tài sản, trong khi đó, theo thông lệ quốc tế, nguyên tắc của ĐGBT/Bảo hiểm
trùng này có thể áp dụng cho cả bảo hiểm trách nhiệm (liability).
Thứ năm,
quy định không đề cập đến việc phải cùng là một NĐBH trong tất cả các HĐBH đó
thì bảo hiểm trùng mới áp dụng cho NĐBH này.
Thứ sáu: việc
quy định cơ chế xử lý khi phát sinh “bảo hiểm trùng” đang chưa phù hợp với
thông lệ bảo hiểm quốc tế, khi chỉ áp dụng nguyên tắc bồi thường theo tỉ lệ
(pro-rata) giữa số tiền bảo hiểm đã thỏa thuận xét trên tổng số tiền bảo hiểm
của tất cả các hợp đồng mà bên mua bảo hiểm đã giao kết, mà bỏ qua 2 trường
hợp khác về nguyên tắc đóng góp bồi thường thường sẽ không áp dụng, thường được đề cập trong điều khoản “Bảo hiểm
khác (Other insurance clause)”.
Bảo hiểm trùng nhưng không đóng
góp bồi thường
Nhiều HĐBH tồn tại điều khoản
Bảo hiểm trùng/Bảo hiểm khác mà theo đó nguyên tắc đóng góp bồi thường sẽ không
áp dụng khi xuất hiện bảo hiểm trùng với 2 trường hợp như sau:
Trường hợp 1: điều
khoản “Escape Clause” (từ bỏ trách nhiệm):
(Điều khoản tham khảo) This
Policy shall not apply in respect of any claim where the insured is entitled to
indemnity under any other insurance (Tạm dịch: Hợp
đồng bảo hiểm này sẽ không áp dụng đối với bất kỳ yêu cầu bồi thường nào mà Người
được bảo hiểm có quyền hưởng bồi thường từ bất kỳ một hợp đồng bảo hiểm nào
khác).
Điều khoản này được thiết kế
nhằm mục đích giúp CTBH sẽ không phải đóng góp bất kỳ khoản tiền bồi thường nào
nếu hợp đồng bảo hiểm khác đã được kích hoạt.
Kiểu 2: điều
khoản “Excess” đóng góp bồi thường cho phần vượt quá:
(Điều khoản tham khảo) "We
will not pay any claim if any loss, damage or liability covered under this
insurance is also covered wholly or in part under any other insurance except in
respect of any excess beyond the amount which would have been covered under
such other insurance had this insurance not been affected." (Tạm dịch:
Công ty bảo hiểm sẽ không thanh toán cho bất kỳ yêu cầu bồi thường nào mà tổn
thất, thiệt hại hoặc trách nhiệm được bảo hiểm dưới Hợp đồng bảo hiểm này cũng
đồng thời được bảo hiểm, một phần hoặc toàn bộ dưới một hợp đồng bảo hiểm khác
ngoại trừ đối với phần trách nhiệm bảo hiểm vượt quá lẽ ra phải được trả theo hợp
đồng bảo hiểm khác đó nếu HĐBH này chưa được thực hiện).
Điều khoản này giúp CTBH có
thể giới hạn được phần trách nhiệm bảo hiểm của mình khi phát sinh yêu cầu bồi
thường kèm theo việc tồn tại HĐBH khác.
Quy chiếu trở lại pháp luật
Việt Nam, với quy định tại Điều 44.2 hiện tại, thì tác giả cho rằng có 2 cách
diễn giải về mục đích của nhà làm luật:
Cách hiểu 1: vô
hiệu hóa các quy định về việc không đóp bồi thường (tức là các thỏa thuận điều
khoản Escape hoặc Excess ở trên sẽ không có hiệu lực). Trong mọi trường hợp xuất hiện Bảo hiểm
trùng, các CTBH đều phải chia sẻ theo tỉ lệ (pro-rata). Một ưu điểm của quy định
này là sẽ tránh được các tranh chấp trong trường hợp các HĐBH khác nhau chứa
các điều khoản Bảo hiểm trùng/Bảo hiểm khác nhau (vd: HĐBH 1 quy định theo tỉ lệ,
HĐBH 2 quy định theo Escape; hoặc cả 2 HĐBH cùng chứa điều khoản
Escape/Excess...).
Cách hiểu 2:
các nhà làm luật chưa chú trọng tới 2 trường hợp đặc thù này, chưa đưa vào văn
bản pháp luật nhằm ghi nhận quyền thỏa thuận tự nguyện của các bên. Tuy nhiên,
một khi đã đưa 2 trường hợp này vào, thì cần phải có hướng dẫn chi tiết về cách
áp dụng nhằm giải quyết trong trường hợp các HĐBH chưa điều khoản bảo hiểm
trùng khác nhau.
Kiến nghị
Từ các phân tích nêu trên về
bảo hiểm trùng, nhằm đảm bảo cân bằng lợi ích giữa các CTBH với nhau và đảm bảo
quyền lợi cho phía NĐBH khi rơi vào tình huống bảo hiểm trùng, tác giả có một số
kiến nghị như sau:
Điều chỉnh tiêu chí nhằm xác
định bảo hiểm trùng theo hướng bao gồm trùng lặp về (i) đối tượng bảo hiểm;
(ii) quyền lợi có thể được bảo hiểm và người được bảo hiểm; (iii) sự kiện bảo
hiểm; và các HĐBH đều phát sinh nghĩa vụ bồi thường của CTBH.
Bổ sung quy định về Bảo hiểm
trùng với loại hình bảo hiểm trách nhiệm dân sự, hoặc đưa lên phần điều kiện
chung.
Đối với việc đóng góp bồi
thường từ các CTBH, trên cơ sở xem xét tính phù hợp của cách hiểu thứ nhất nêu
trên cho Điều 44.2 Luật KDBH, cần bổ sung quy định khẳng định các thỏa thuận về
đóng góp bồi thường khác (escape, excess) sẽ đương nhiên không có hiệu lực./.
Tạ Mạnh
Thắng
Trưởng
phòng Pháp chế & Tuân thủ - Công ty TNHH Bảo hiểm Bảo
Việt Tokio Marine